Tổng chất rắn hòa tan (TDS) là một đơn vị đo hàm lượng kết hợp của tất cả các chất vô cơ và chất hữu cơ chứa trong nước dạng phân tử, ion hóa hoặc vi hạt. Nói chung, định nghĩa chi tiết là các chất rắn phải nhỏ đủ để đi qua một bộ lọc với những lỗ nhỏ cỡ 2 micromet (kích thước danh định, hoặc nhỏ hơn). Tổng lượng chất rắn hòa tan thường chỉ được sử dụng cho các hệ thống nước ngọt vì độ muối bao gồm một số ion cấu thành định nghĩa TDS. Việc áp dụng chính của TDS là nghiên cứu về chất lượng nước cho các dòng suối, sông ngòi, hồ, mặc dù TDS thường không được xem là chất gây ô nhiễm chính (ví dụ nó không được xem là liên quan đến các ảnh hưởng đến sức khoẻ) nó được sử dụng như một chỉ thị về các đặc tính của nước uống và là một chỉ thị tổng hợp về sự hiện diện của một loạt các chất gây ô nhiễm hóa học.
Nguồn chính của TDS là tiếp nhận nước từ nước thải nông nghiệp và nhà ở, nước vùng núi giàu sét, ô nhiễm đất và nước thải nguồn điểm xả từ nhà máy công nghiệp và các nhà máy xử lý chất thải công nghiệp. Các thành phần hoá học phổ biến nhất là Canxi, Phosphat, Nitrat, natri, kali và clorua, xuất hiện trong dòng chảy nông nghiệp, dòng chảy mưa bão và chảy ra ở khí hậu lạnh, nơi có các muối băng tan. Các hoá chất này có thể là cation, anion, phân tử hoặc các kết tụ theo thứ tự của một ngàn phân tử hoặc ít hơn, miễn là một hạt nhỏ kích thước micro được hình thành. Các nguyên tố ngoại lai và độc hại của TDS là thuốc trừ sâu phát sinh từ dòng chảy bề mặt. Một số chất rắn hòa tan xảy ra tự nhiên phát sinh từ quá trình phong hóa và giải phóng đá và đất. Hoa Kỳ đã thiết lập một tiêu chuẩn chất lượng nước thứ cấp là 500 mg / l để xác định khả năng uống được của nước uống
Mức độ cao của tổng chất rắn hòa tan không tương quan với nước cứng, vì chất làm mềm nước không làm giảm TDS. Nước làm mềm loại bỏ các ion magiê và canxi, gây ra nước cứng, nhưng những ion này được thay thế bằng một số lượng ion natri hoặc kali tương ứng. Điều này cho phép tổng thể TDS không thay đổi. Nước cứng có thể gây ra sự tích tụ quy mô trong đường ống, van, và bộ lọc, giảm hiệu suất và thêm vào chi phí bảo trì hệ thống. Những tác động này có thể được nhìn thấy trong hồ cá, spa, bể bơi, và các hệ thống xử lý nước thẩm thấu ngược. Thông thường, tổng chất rắn hòa tan được kiểm tra thường xuyên, và các màng lọc được kiểm tra để ngăn ngừa các tác động bất lợi.
TDS chỉ diễn tả tổng nồng độ ion hòa tan trong dung dịch, chứ không thể hiện được nồng độ của từng thành phần riêng biệt.
Theo các quy định hiện hành của WHO, US EPA, và cả Việt Nam, TDS không được vượt quá 500 mg/l đối với nước ăn uống và không vượt quá 1000 mg/l đối với nước sinh hoạt TDS càng nhỏ chứng tỏ nước càng sạch (nếu quá nhỏ thì gần như không còn khoáng chất. Nguồn nước có TDS cao chưa chắc đã không an toàn, có thể do nó chứa nhiều ion có lợi. Các loại nước khoáng thường không bị giới hạn về TDS.
Nếu trong nước không có chất khoáng nào hòa tan thì ta hiểu ngay TDS sẽ bằng không. Đó là nước cất, nước kỹ thuật trong phòng thí nghiệm & nhà máy, nước tinh khiết. Thực tế làm được nước tinh khiết như thế rất khó. Cho nên chỉ số TDS thường là khoảng dưới 10. Chất rắn hòa tan ở đó cực kỳ nhỏ, gần bằng không.
Trong nước ăn, uống, sinh hoạt thì TDS cao hơn nhiều, bởi vì nó chứa các khoáng chất của tự nhiên. Cần lưu ý rằng, loài người sinh ra hàng triệu năm rồi. Việc tắm rửa, ăn uống bằng nước trong thiên nhiên, chứa đầy các khoáng chất. Bây giờ loài người đã thích nghi và rất cần những khoáng chất của thiên nhiên, thiếu nó sẽ sinh ra bệnh tật, nhưng có khoáng chất trong nước là để cho sức khỏe bình thường và cân bằng, và không nên hiểu là nó chữa được bệnh gì. Nhiều kim loại thuộc dạng khoáng chất như kẽm, magie,…
Chính vì lẽ đó, chỉ số TDS trong quy chuẩn nước ăn uống và sinh hoạt của Việt Nam và Thế giới là cho phép tới 1000 (mg/ lít) và các thành phần khoáng chất trong đó cũng được quy định ở hạn mức nhất định. Chưa có một quốc gia nào xác định nước cất, nước tinh khiết là nước ăn uống sạch.
Nước sạch là nước không màu, không mùi, không vị, chứa các khoáng chất và vi lượng của thiên nhiên, được tiêu chuẩn hóa theo các Quy chuẩn của Việt Nam, như QCVN01, QCVN02-2009/BYT. Trong đó Tổng chất rắn hòa tan TDS cho phép tới 1000
Như vậy, khi đo chỉ số TDS trong nước ăn uống, đạt con số hàng trăm là rất tốt. Và cần xem xét thêm các thông số khác của nước.
Một lượng TDS không phải là sự nguy hại đến sức khỏe. Hàm lượng TDS là một tiêu chuẩn thứ cấp của nước uống, chỉ ra những điều sau:
– Hàm lượng của ion hòa tan làm cho nước có tính ăn mòn, vị mặn hoặc lợ, tạo nên các lớp vẩy, đóng bám, làm giảm hiệu suất của máy nước nóng.
– Có thể chứa nhiều lượng ion mức độ nằm trên Tiêu chuẩn cơ bản hoặc thứ 2 nước uống, như mức độ Nitrat, Asen, nhôm, đồng, chì,..